Wednesday, January 07, 2009

Tứ vô lượng tâm

Reference http://www.scribd.com/doc/8920486/T-Vo-Lng-Tam-Trn-inh-Hoanh?autodown=pdf

Con đường Bồ tát bắt đầu khi người thiện nam, người thiện nữ, phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. Tâm này còn gọi là tâm bồ đề, và phát tâm bồ đề tức là phát nguyện tự giải thoát mình để giải thoát tất cả chúng sinh. Đó là tự độ và độ tha. Khi người thiện nam thiện nữ phát tâm bồ đề như vậy là đã trở thành Bồ tát, bắt đầu tập sự con đường Bồ tát. Tâm bồ đề đương nhiên là đặt trên lòng thương yêu chúng sinh vô bờ bến của Bồ tát. Lòng thương yêu vô lượng này còn gọi là tứ vô lượng tâm, bốn tâm vô lượng, vì nó có bốn phần, hay bốn tâm – từ, bi, hỉ, xả.

Bốn tâm vô lượng đã xuất hiện trong Phật Giáo Nguyên Thủy và còn có một tên nữa là bốn phạm trú. Gọi là vô lượng, vì các tâm này rộng vô biên, vô giới hạn, khởi từ trong tâm ta, hướng đến không phải chỉ là một vài người hay một số lớn người, mà là đến tất cả mọi loài, tất cả chúng sinh. Gọi là phạm trú, vì có thể xem đây là thái độ tốt nhất của ta đối với chúng sinh, với tâm của ta hoàn toàn tinh khiết như tâm của vua cao nhất của cõi trời, Phạm thiên. Như vậy là với bốn tâm vô lượng, ta “trú” ngang hàng với Phạm thiên.

Bốn tâm vô lượng là các đề mục quán sát trong thiền định của Phật Giáo Nguyên Thủy. Trong khi thiền, hành giả quán sát theo thứ tự: từ, bi, hỉ, xả. Từ là thiền đầu tiên, bi là thiền cấp hai, hỉ cấp ba, xả cấp tư. Theo cách thiền tập này, thì các mức thiền quán của từ, bi và hỉ còn lệ thuộc vào tình thương của ta đối với chúng sinh, tức là vẫn còn tâm phân biệt giữa ta và chúng sinh, và giữa chúng sinh này với chúng sinh khác. Đến mức thiền thứ tư, xả, thì mới thực sư chuyên tâm thực tập tâm vô phân biệt, tâm bình đẳng, không còn thấy có sự khác biệt giữa các chúng sinh, và không có khác biệt giữa ta và chúng sinh. Lúc này tâm mới thực sự thanh tịnh vì không còn phân biệt.

Như vậy, ngay từ trong Phật Giáo Nguyên Thủy, xả đã là tâm quan trọng nhất trong bốn tâm vô lượng. Và điều này rất phù hợp với bát nhã của Phật Giáo Đại Thừa. Trong Đại Thừa, bát nhã hay bát-nhã ba-la-mật-đa là trí tuệ tối thượng đưa đến giác ngộ hoàn toàn. Trong bát nhã, hoàn toàn không có một “chấp” nào. Bát nhã là xả bỏ mọi vướng mắc, mọi chấp trước, đến mức cùng tận. Trong bát nhã, hoàn toàn không có chấp vào sự khác biệt giữa cái này và cái kia, giữa ta và chúng sinh, hoặc giữa các chúng sinh với nhau. Ta là chúng sinh, chúng sinh là ta, và tất cả chúng sinh đều như nhau.

Bởi vì xả nắm vai trò cốt cán nhất trong tứ vô lượng tâm, ta sẽ khảo sát xả trước, sau đó ta sẽ tiếp tục với từ, bi và hỉ. Và bởi vì xả bỏ hoàn toàn mọi chấp trước chính là trí tuệ bát nhã mà chư Phật ba đời quá khứ hiện tại tương lai đều tựa vào để đạt thành chánh quả, chúng ta sẽ khảo sát bốn tâm vô lượng trong trí tuệ bát nhã, tức là ở một mức triệt để hơn là xả của Phật Giáo Nguyên Thủy.

Xả

Xả là upekkha trong tiếng Pali, upeksha trong tiếng Sankrist. Theo luận sư Buddhaghosa, xả có nghĩa là tâm bình đẳng đối với mọi chúng sinh.

Ngày nay, khi nói đến xả, chúng ta thường nghĩ đến xả bỏ, buông xả, tha thứ. Đối với chính mình thì ta xả bỏ các thù hằn, ghen ghét, hờn giận trong lòng, xả bỏ ba nọc độc tham lam, sân hận, si mê. Đối với người khác thì ta xả bỏ mọi lỗi lầm, xấu xa, yếu kém mà họ có.

Tuy nhiên, bát nhã thì lại triệt để hơn rất nhiều. Bát nhã là vô chấp hoàn toàn, là không chấp vào bất kỳ điều gì, vật gì, ý gì, là xả hoàn toàn, xả triệt để. Trong Kinh Kim Cang, đức Phật nói, “Người thiện nam, người thiện nữ, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên sanh tâm như thế này: Ta nên diệt độ tất cả chúng sanh, diệt độ tất cả chúng sanh rồi mà không có một chúng sanh thật diệt độ. Vì cớ sao? Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả ắt không phải là Bồ-tát.”

Vậy nghĩa là gì? Con đường Bồ tát là con đường tự độ mình và đồng thời độ tất cả chúng sinh. “Tất cả chúng sinh” có nghĩa là tất cả chúng sinh, không phân biệt nam nữ, tốt xấu, thiện ác, già trẻ, giàu nghèo, giỏi dốt, ngay cả không phân biệt loài người và các sinh vật khác. Bồ tát không thấy có sự khác biệt giữa các chúng sinh. Hay nói đúng hơn, Bồ tát vẫn thấy có sự khác biệt giữa các chúng sinh khi nhìn bằng con mắt, nhưng không thấy sự khác biệt đó trong tâm mình. Nghĩa là vô chấp trong tâm.

Bồ tát cũng không thấy khác biệt giữa ta và chúng sinh. Ta là chúng sinh, chúng sinh là ta. Ta và chúng sinh là một. Bồ tát không chấp vào khác biệt giữa ta và chúng sinh. Bồ tát độ tất cả chúng sinh nhưng thật không có chúng sinh nào được độ, vì khi độ chúng sinh Bồ tát chỉ thấy như mình đang tự độ mình thôi.

Nhưng làm sao Bồ tát đạt được tâm vô chấp đó?

Bồ tát khởi đầu bằng cách xả bỏ cái tôi (xả bỏ “tướng ngã”). Bồ tát xem xét cái tôi của chính mình, và thấy rằng cái tôi thật là phù du hư ảo. Cái tôi chỉ là kết hợp tạm thời của năm uẩn--hình thể, cảm giác, ấn tượng, tạo ý, và suy tưởng. Một lúc nào đó cái tôi sẽ ngã xuống, rã ra và tan biết đi. Giữa vũ trụ mênh mông, cái thân năm uẩn chỉ là một điểm chớp nhỏ trên màn ảnh ra đa, môt chớp rồi biến mất. Cái thân năm uẩn này thực tế là Không; ngũ uẩn giai không, như Bát Nhã Tâm Kinh đã nói. Đó là vô ngã —không có cái tôi vĩnh cửu. Vì thế Bồ tát không chấp nhận “ý tưởng là có cái tôi;” Bồ tát không chấp nhận “tướng ngã.”

Nói một cách nôm na là xem như cái tôi không có. Dĩ nhiên là khi cái tôi không có thì lấy ai để mà tham lam, sân hận, kiêu căng, ích kỷ, si mê, lo lắng, căng thẳng? Nếu cái tôi còn là còn ba độc tham sân si, là tâm còn ô nhiễm. Nếu cái tôi mất là hết tham sân si, tâm trở nên thanh tịnh. Cái tôi còn là tánh phàm phu trong ta hiện ra, cái tôi hết là Phật tánh trong ta hiện ra. Vì vậy, khi Quán-tự-tại bồ tát thấy rằng thân năm uẩn của ngài là Không, ngài liền vượt qua mọi khổ ách. Vậy thì, việc đầu tiên Bồ tát làm trên đường hành đạo là xả bỏ cái tôi của mình, hay nói theo ngôn ngữ của Kinh Kim Cang là xả bỏ “tướng ngã.”

Điều thứ nhì Bồ tát làm là xả bỏ “tướng người,” (hay là “tướng nhân.”)
“Nhân” không chỉ có nghĩa eo hẹp là “người khác,” (đối nghĩa với “ngã”) như nhiều người thường nghĩ. “Nhân” đây là pudgala trong tiếng Sankrist và human trong tiếng Anh, tức là “con người.” Dĩ nhiên “con người” thì bao gồm cả “ta” và “mọi người khác,” bao gồm cả “ta” và “người.”

Nếu cái thân ngũ uẩn của ta là Không, thì cái thân ngũ uẩn của tất cả mọi người khác cũng là Không. Thế thì việc gì ta phải chấp vào cái tôi của mọi người? Nếu ta không còn chấp vào cái tôi của mọi người thì lấy gì để mà khinh thường, trách móc, giận hờn, ghen ghét, chê bai người khác? Nếu ta và mọi người đều là Không, thì lấy gì để có phân biệt giữa ta và người? Người cũng như ta, ta là Không, người là Không, tất cả là Không.

Điều thứ ba Bồ tát làm là xả bỏ “tướng chúng sinh.”
“Chúng” là từ để chỉ số đông. “Sinh” là sự sống, trong tiếng Sankrist là sattva, tiếng Anh là sentient being, có nghĩa là sinh vật hữu tình, sinh vật có cảm giác. Nói chung, “chúng sinh” (hay “chúng sanh”) chỉ toàn thể mọi sinh vật.

Con người chúng ta, nếu chưa thành Phật, thì kiếp kiếp vẫn còn loanh quanh trong sáu nẻo luân hồi: trời, người, a-tu-la, súc sinh, địa ngục, ngạ quỷ. Tất cả các loài trong sáu nẻo luân hồi này gọi chung là “chúng sinh.” Thế thì tất cả chúng sinh đều chỉ là một hình thái khác của con người trong những kiếp tái sinh khác nhau mà thôi. Và nếu con người không thật có “cái ngã” của mình, thì tất cả mọi chúng sinh cũng đều là “vô ngã” như thế. Con người, cũng như các chúng sinh, tất cả đều là Không.

Nếu ta và chúng sinh đều là Không, thì lấy gì để có phân biệt giữa ta và chúng sinh? Chúng sinh cũng như ta, ta là Không, chúng sinh là Không, tất cả là Không. Nếu ta không còn chấp vào cái ngã của chúng sinh thì lấy gì để mà khinh thường, trách móc, giận hờn, ghen ghét, chê bai?
Ta nên nhớ rằng, Bồ tát tức là Bodhisattva, bodhi là giác ngộ, sattva là chúng sinh hữu tình. Vậy có nghĩa là tất cả mọi chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi, kể cả các loài súc sinh hay ngạ quỷ đều có được khả năng giác ngộ trở thành Bồ tát. Vậy thì làm sao có được khác biệt giữa ta và
chúng sinh?

Điều thứ tư Bồ tát làm là xả bỏ “tướng thọ giả.”
Thọ giả là jiva trong tiếng Sankrist, có nghĩa là một đời sống vĩnh cửu, một linh hồn vĩnh cửu, một đời sống kéo dài theo thời gian. Tướng thọ giả, hay đúng ra là tưởng thọ giả, là ý tưởng về một đời sống kéo dài vĩnh cửu.

Điều này thì rõ ràng là khác hẳn với bản chất vô thường vô ngã của mọi thứ. Chấp vào tướng thọ giả là chấp vào một cuộc đời vĩnh cửu có thật, trong khi nó chỉ là một kết hợp rất ảo, rất tạm thời.

Vì Bồ tát không chấp vào tướng thọ giả, Bồ tát không chấp vào ảo tưởng của cái tôi vĩnh cửu của mình, cũng như ảo tưởng về cái ngã vĩnh cửu của tất cả chúng sinh. Bồ tát thấy được tất cả là Không. Thế thì, làm sao mà có được phân biệt giữa ta và tất cả chúng sinh, giữa ta và tất cả mọi thứ trong vũ trụ? Lấy gì mà tranh chấp hơn thua thị phi? Khi buông xả hết các tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, Bồ tát có tâm bình đẳng và thanh tịnh, sống với tất cả chúng sinh như sống với chính mình, và sống với chính mình như mình không hiện hữu, không tham sân si, không vướng mắc.

Nhưng Bồ tát còn đi xa hơn nữa, đến mức xả bỏ cả Phật pháp. Trong Kinh Kim Cang, sau khi nói “nếu Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả ắt không phải là Bồ-tát,” đức Phật nói tiếp: “Vì cớ sao? Tu-bồ-đề, thật không có pháp phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.”

Tại sao lại không? Có pháp Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. Phật pháp có pháp phát tâm bồ đề và có lục độ ba-la-mật để các Bồ tát thực hành, sao lại nói là không có pháp? Thật là có pháp, nhưng nếu Bồ tát chấp vào pháp đó để đắc đạo thì chắc là không thể đắc đạo được, vì trong lòng còn ham mê đắc đạo. Hơn nữa, nếu còn chấp vào pháp thì vẫn còn chấp, mà còn chấp thì không đắc đạo. Vì vậy, dù là có Phật pháp, pháp có thể hành nhưng không thể chấp, cho nên mới nói là không có pháp.

Nhưng làm thế nào hành mà không chấp? Bố thí là độ đầu tiên trong lục độ ba-la-mật. Bố thí chính là xả, là cho đi những gì mình có. Trong Kinh Kim Cang đức Phật nói: “Bồ tát không trụ tướng mà bố thí.” Không trụ tướng tức là không chấp vào bất kỳ tướng nào, bất kỳ tưởng nào, bất kỳ điều nào. Khi ta bố thí, ta không chấp vào ta là người bố thí, không chấp vào người được bố thí, không chấp vào vật bố thí, không chấp vào hành vi bố thí, không chấp vào bố thí như là con đường đắc đạo. Tóm lại, Bồ tát bố thí tự nhiên như hít như thở mà không phải vướng mắc vào bất kỳ ý tưởng nào, bất kỳ tướng nào, bất kỳ cố gắng nào.

Xả là không chấp, chứ không phải không làm. Làm mà không chấp. Và chính đức Phật nói: “Thế nên Như Lai nói tất cả các pháp đều là phật pháp.” Nghĩa là khi tâm ta không chấp “đây là Phật pháp, đó không phải là Phật pháp” và quán sát mọi sự với một tâm thanh tịnh không bị chấp trước làm mù mắt, thì bất kỳ điều gì trên đời cũng đều có thể giảng cho ta về Phật pháp. Nếu tâm ta không chấp, thì một cánh chim, một bông hoa, cũng có thể nói với ta lẽ vô thường và vô ngã, một con nai bị thương đi khập khiễng cũng nói được cho ta về cái khổ. Nếu tâm ta không chấp, thì bố thí sẽ mang đến vô lượng công đức. Nếu tâm ta không chấp vào bất kỳ điều gì, thì ta thấy được Như Lai. Nhưng nếu tâm ta chấp, thì ngay cả Bồ tát đạo cũng không mang lại giải thoát.

Vì vậy, vô chấp, xả bỏ tất cả mọi chấp, tức là con đường Bồ tát. Bồ tát không chấp ngã, nhưng cũng không chấp vô ngã; vì vậy Bồ tát vẫn ăn uống dưỡng thân và vẫn hành thiện. Bồ tát không chấp nhân, nhưng cũng không chấp phi nhân; vì vậy Bồ tát vẫn bố thí, vẫn độ chúng sinh. Bồ tát không chấp pháp, nhưng cũng không chấp phi pháp; vì vậy vẫn chuyên tâm thọ trì đạo pháp, vẫn bố thí, vẫn diệt độ.

Nói tóm lại, Bồ tát xả bỏ mọi chấp. Bồ tát không chấp có, nhưng cũng không chấp không. Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc; Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Nói là pháp thì cũng đúng, nói là phi pháp thì cũng đúng. Nếu tâm ta không chấp thì đằng nào cũng đúng. Nếu tâm ta chấp thì đằng nào cũng sai. Vấn đề không lệ thuộc vào sự vật, nhưng vào cách nhìn của ta về sự vật—ta chấp hay ta xả bỏ chấp. Bồ tát sống ung dung, tự tại, tịnh tâm, vô chấp, hoàn toàn xả bỏ.

No comments: