Friday, August 31, 2007

Góp nhặt cát đá

Sunday, August 26, 2007

Đánh chuông thật, nghiệm tính thường

Trong quyển 4, mục XII của Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Anan nghe Phật dạy rằng chỗ phát tâm lúc tu nhân cần phải phù hợp vối bản tính thường trụ, mặc khác, Phật lại dạy tính viên trạm bị dính ở sáu căn, cần phải mở cái nút ấy ra, mới được giác ngộ, như thế thì không thể đem sáu căn trong phạm vi mê lầm mà tu chứng thành quả thường trụ.

Tuy nhiên Phật lại dạy phải lựa 1 trong 6 căn mà đi sâu để chứng minh không sinh diệt. Do đó, Anan nghỉ rằng, nếu bản tính của sáu căn là mê lầm thì cái thấy rời các sắc, trần ra, rốt ráo không có tự thể, làm sao lại đem bản tính của căn mê lầm ấy làm cái nhân tu hành để thành được vô thượng giác? Mặc dù trước kia Phật cũng có dạy tính bất sinh diệt của tính thấy, đối với cái thấy hiện tại của chúng sinh không dính dáng gì; chúng sinh chỉ có cái thấy sinh diệt, làm sao nương theo nó tu hành, lại thành được cái quả bất diệt.

Anan bạch Phật - "Bạch Thế Tôn, nếu cái thấy, cái nghe ngoài những tướng sáng tối, động tĩnh, thông bịt, rốt ráo không có tự thể cũng như cái tâm niệm, rời tiền trần ra, vốn không có gì thì làm sao lại đem cái rốt ráo đoạn diệt ấy làm cái nhân tu hành, để được bảy quả thường trụ của Như Lai. Bạch Thế Tôn, nếu rời sáng tối, thì cái thấy rốt ráo là không; nếu không có tiền trần thì tự tính tâm niệm diệt mất, lui tới vần xoay, suy xét chín chắn vốn không có tâm tôi và tâm sở của tối; vậy đem cái gì làm nhân để cầu được vô thượng giác. Đức Như Lai trước kia nói cái tính hay biết yên lặng là viên mãn thường trụ, nhưng đã trái lẽ thường, thì rốt cuộc chỉ thành hý luận, làm sao nhận được lời nói của Như Lai là chân thật? Xin Phật rủ lòng đại từ, mở chỗ mê chấp cho tôi."

Phật bảo Anan rằng: "ông học về mặt nghe nhiều, chưa hết các điều lậu lạc, trong tâm chỉ biết suông cái nhân điên đảo mà cái điên đảo hiện thật trước đó thì chưa biết được, e ông còn chưa tin phục. Nay tôi thử đem những việc trần tục để trừ cái nghi của ông". Khi bấy giờ, đức Như Lai bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông rồi bảo Anan rằng, "Nay ông có nghe chăng?"

Anan và đại chúng đều nói: "Có nghe".

Chuông hết kêu, không tiếng, Phật lại hỏi rằng: "Nay ông có nghe chăng?"

Anan và đại chúng đều đáp: "Không nghe"

Khi đó, La Hầu La lại đánh một tiếng, Phật lại hỏi rằng: "Nay ông có nghe chăng?"

Anan và đại chúng đều đáp: "Có nghe"

Phật hỏi Anan: "Thế nào thì ông có nghe, còn thế nào thì ông không nghe?"

Anan bạch Phật rằng: "Tiếng chuông nếu đánh lên thì chúng tôi được nghe; đánh lâu tiếng hết, tăm vang không còn thì gọi là không nghe"

Phật bèn bảo La Hầu La đánh chuông, rồi hỏi Anan rằng: "Theo ông, nay có tiếng không?"

Anan và đại chúng trả lời: "Có tiếng"

Ít lâu sau tiếng dứt, Phật lại hỏi rằng: "Theo ông, nay có tiếng không?"

Anan và đại chúng đều đáp: "Không tiếng"

"Thế nào là có tiếng, thế nào thì gọi là không tiếng?", Phật hỏi.

Anan bạch: "Tiếng chuông, nếu đánh lên thì gọi là có tiếng, đánh lâu tiếng hết, tăm vang không còn thì gọi là không tiếng"

Phật bảo Anan và đại chúng: "Hôm nay các ông sao nói trái ngược, lộn xộn như thế?". Tôi hỏi ông về nghe, thì ông nói là nghe, tôi hỏi ông về tiếng thì ông nói về tiếng, chỉ cái nghe và cái tiếng mà trả lời không nhất định như thế, sao lại không gọi là trái ngược lộn xộn? Anan, tiếng kêu mất, không âm vang thì ông gọi là không nghe; nếu thật không nghe thì tính nghe đã diệt rồi, đồng như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh lên, làm sao ông còn biết được. Biết có, biết không là tự cái tiếng không, hoặc có, đâu phải tính nghe kia vì đó mà có, mà không; nếu tính nghe kia thật là không, thì còn cái gì biết là không nữa.

Vậy nên Anan, cái tiếng ở trong phạm vi tự có sinh, có diệt, không phải vì ông nghe cái tiếng sinh diệt, mà làm cho tính nghe của ông thành có, thành không. Ông còn lộn lạo, lầm cái tiếng làm cái nghe, lạ gì chẳng mê mờ, lấy cái thường làm cái đoạn. Tóm lại, ông không nên nói rằng rời cái thứ động tĩnh, đóng mở, thông bịt thì cái nghe không có tính.

Như người ngủ mê, nằm trên giường gối; trong nhà có người đang giã cối gạo lúc người kia ngủ; người ấy trong chiêm bao nghe tiếng giã gạo, lầm thành vật khác, hoặc cho là đánh trống hoặc cho là đánh chuông. Tức là trong chiêm bao người ấy cũng làm lạ rằng sao tiếng chuông ấy lại vang lên như cây, như đá. Khi chợt tỉnh dậy, liền nghe tiếng chày, thì người ấy tự bảo người nhà rằng chính rằng trong lúc chiêm bao, tôi đã lầm tiếng chày này là tiếng trống. Anan, người đó, trong chiêm bao, đâu nhớ những chuyện động tĩnh, đóng mở, thông bịt; hình người tuy ngủ nhưng tính nghe không mờ, dầu cho hình ông tiêu tan, thân mạng dời đổi diệt mất, làm sao tính nghe ấy lại vì ông mà tiêu diệt được.

Do các chúng sinh, từ vô thỉ đến nay, di chuyển theo sắc thanh, theo niệm mà lưu chuyển, không hề khai ngộ bản tính thanh tịnh diệu thường; không theo cái thường, chỉ theo các thứ sinh diệt, do đó đời đời bị tạp nhiễm mà phải lưu chuyển.

Nếu bỏ cái sinh diệt, giữ tính chân thường; cái sáng suốt chân thường hiện tiền, thì các tâm niệm, căn, trần, thức ngay đó đều tiêu mất; tướng vọng tưởng là trần, tính phân biệt là cấu, hai cái đó đã xa rời thì pháp nhãn của ông liền được trong suốt, làm sao lại không thành bậc vô thượng tri giác?