Friday, February 22, 2008

Tánh Không (2)

(tiếp theo bài trước)

Vô Thường


Vô thường thường được hiểu như sau: thể hiện một sự thay đổi, một sự chuyển tiếp từ sanh đến diệt và ngược lại.

Tuy nhiên, trong kinh Duy Ca Mật có đoạn viết rằng:
....Ngài Ca Diên Chiên bạch Phật hỏi rằng: "... Khi con giảng lại yếu chỉ các pháp cho Tỳ Kheo nghe, là Vô Thường, Khổ, Không, Vô ngã và Tịch Diệt thì ngài Duy Ca Mật đến với con và nói rằng - Thưa ngài Ca Diên Chiên, ngài chớ đem tâm hạnh sanh diệt mà nói pháp thật tướng! Các pháp rốt ráo không sanh không diệt nghĩa là Vô Thường..."

Như vậy ý của câu trên nói rằng Vô Thường vốn không sanh không diệt. Nghe có vẽ mâu thuẩn với cách hiểu ở trên. Cơ sở của lời tuyên bố này có thể trình bày trong các bước sau:

  1. Vô thường có nghĩa là thay đổi, có nghĩa là không tồn tại, hay dừng trụ trong phút chốc
  2. Ta không có lý do để xem một giây phút nào đó là tồn tại, hay dừng trụ vì nếu như vậy thì các giây phút khác cũng phải xem là như vậy --> không có sự thay đổi nào cả
  3. Khái niệm về hiện hữu vốn không tách rời khỏi khái niệm tồn tại. Không tồn tại nghĩa là không hiện hữu. Do đó nói các pháp là nhất thời tức là nói các pháp là không vậy.
  4. Phút chốc của sự tồn tại cũng đồng nghĩa với phút chốc của sự không tồn tại. Chính vì vậy mà sự "diệt tận" mới có thể khả hữu được (tồn tại), và chỉ với sự diệt tận thì sự sinh khởi theo sau mới làm cho khả hữu được.
  5. Cái "tồn-tại-của-không-tồn-tại" là thực tại của Vô thường.
--> Ý nghĩa của Vô Thường không phải là sanh (hay diệt tận), cũng không phải là diệt (hay xuất hiện). Điều này có nghĩa là sự đồng thời không sanh cũng không diệt là ý nghĩa thật sự của Vô Thường.

Vô Thường là một viên đá để bước đến Tánh Không. Giáo lý của cả hai vốn thật sự như nhau, chỉ khác nhau về chiều sâu và sự thâm túy. Bây giờ những sự hiện hữu tồn tại được hiểu là cái vốn dừng trụ, nếu không có sự dừng trụ thì tự nhiện sẽ không có sự hiện hữu tồn tại. Không có sự hiện hữu tồn tại thì đồng nghĩa với Tất Cánh Không, vốn là một giáo lý tinh tế và kỳ diệu về Vô Thường.

(có một "chủ thuyết vĩnh cữu" hay "chủ thuyết duy thực" - triết học Parmenides hoàn toàn đối lập với giáo lý Phật giáo về Vô Thường)

Vô Ngã

Ngã thông thường được hiểu là: cái vốn vĩnh hằng, bất biến, nhất thể và tự tại (tự do ý chí) gọi là ngã.

Các triết gia bên ngoài và bên trong Phật giáo thường tranh cãi khá nhiều về tính vô ngã, vì chủ yếu họ xem nó như là một khái niệm hay một triết học. Thật ra Vô Ngã chỉ là một công cụ tham thiền, một chỉ dẫn thực tiễn được áp dụng trong sự quán tưởng nhằm mục đích giải thoát (như đã được trình bày rõ ràng trong phương pháp Tứ Niệm Xứ). Đức Phật chưa bao giờ là một triết gia cả. Mối quan tâm chính của ngài là vạch ra con đường đưa đến giải thoát - giải thoát khỏi sự chấp thủ thâm căn vào một ảo ngã vốn là nguồn gốc của mọi tham ái và khổ đau phiền muộn. Các suy luận triết học luôn bị Đức Phật bác bỏ vì nó vô dụng và không bổ ích cho việc tu tập.

Tuy nhiên, ở cấp độ thông thường, Đức Phật không bao giờ phản đối ý tưởng về ngã, bởi vì chính ngài đã luôn dùng đại từ ngôi thứ nhất "Tôi", ngài cũng không phủ nhận sự tương tục của một chuồi bản ngã luôn thay đổi kéo dài từ những kiếp sống từ vô thủy cho đến những kiếp tái sanh ở tương lai. Nếu điều này là đúng như vậy thì cái gì là cái "ngã" mà Đức Phật đã cố gắng loại trừ và đánh đổ?

Đối với những Phật tử thành tín thì đây không phải là một vấn đề quan trọng, vì họ sẽ biết chính xác Vô Ngã có nghĩa là gì một khi họ đạt đến Giác Ngộ. Tuy nhiên đối với những Phật tử có khuynh hướng triết học, họ phải giải quyết xem cái nào là ngã mà giáo lý Vô Ngã đã đánh đổ, cái "ngã" nào là cần được duy trì cho mục đích nào đó.

(còn tiếp)

No comments: